Dưới thời Cao Tổ Lý Tĩnh (nhà Đường)

Năm 618, sau khi nhận được tin Vũ Văn Hóa Cập gây chính biến, giết chết Tùy Dạng Đế. Lý Uyên ép Tùy Cung Đế nhường ngôi để lập ra nhà Đường, tức là Đường Cao Tổ. Lý Tĩnh tiếp tục phục vụ cho triều đại mới và đến năm 619 thì tham gia chiến dịch tấn công nước Trịnh của Vương Thế Sung, lập công trong trận Lạc Dương và trận Hổ Lao nên được phong chức và cho khai phủ.

Sau đó, cũng vào năm 619, Lý Uyên đã giao phó cho Lý Tĩnh đánh dẹp Tiêu Tiển (蕭銑), là chắt của vua nhà Lương (502 - 557) là Thế Tổ Nguyên Đế (Tiêu Dịch) (508 - 555) đang cát cứ vùng trung du sông Trường Giang. Khi đến Kim Châu, Lý Tĩnh đụng phải một bọn cướp đã mấy lần đánh bại Lư Giang vương Lý Viện, cháu họ của Cao Tổ. Lý Tĩnh đã kết hợp lực lượng với Lý Viện cùng đánh tan bọn cướp. Tuy nhiên khi đến biên giới nước Lương, ông bị quân Lương đánh chặn và không thể tiến thêm được nên phải dừng ở Hạ Châu. Đường Cao Tổ vì nghi ngờ Lý Tĩnh cố tình không tiến quân nên rất giận dữ, bí mật sai Thứ sử Hạ Châu là Hứa Thiệu giết Lý Tĩnh. Tuy nhiên, Hứa Thiệu vì tán thưởng tài cầm quân của Lý Tĩnh nên dâng tấu xin Cao Tổ tha chết cho Lý Tĩnh, Cao Tổ sau đó đã chấp thuận. Trong lúc đó, vào mùa xuân năm 620, một thủ lĩnh bộ tộc Khai Sơn ở Quí Châu nổi dậy chống nhà Đường. Đường Cao Tổ ban đầu sai cháu họ là Triệu quận vương Lý Hiếu Cung đi dẹp nhưng không thành công. Lý Tĩnh sau đó tiếp viện với 800 kỵ binh, bí mật đột kích chém được tướng giặc, dẹp được phản loạn.

Diệt Tiêu Tiển

Vào năm 621, Lý Tĩnh thông qua Lý Hiếu Cung dâng lên 10 sách lược bình Lương cho Đường Cao Tổ. Đường Cao Tổ duyệt phương án của Lý Tĩnh và cho Lý Tĩnh làm phó tướng của Lý Hiếu Cung. Vì Lý Hiếu Cung còn trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm nên thực tế Cao Tổ giao cho Lý Tĩnh quyền chỉ huy trong hầu hết chiến dịch nhưng Lý Hiếu Cung vẫn là chủ tướng trên danh nghĩa.

Mùa thu năm 621, Đường Cao Tổ hạ lệnh cho Lý Hiếu Cung và Lý Tĩnh đem đại quân diệt nước Lương, trong khi đó Lý Viện và các tướng khác tấn công ở các mặt trận khác. Cùng lúc này trời mưa to, mực nước sông Trường Giang rất cao, dòng chảy rất nhanh. Trong khi các tướng khác cho rằng nên tạm hoãn tiến công, Lý Tĩnh khuyên Lý Hiếu Cung nên nhân lúc nước chảy nhanh mà vượt sông đánh kinh đô của Tiêu Tiển là Giang Lăng. Lý Hiếu Cung theo kế, ngay hôm đó cùng Lý Tĩnh chỉ huy 2000 chiến thuyền vượt sông. Tiêu Tiển vì thấy mùa lũ nên đã cho quân lính giải tán lo việc nông canh, một mặt chỉ có thể huy động quân già yếu ra chống, một mặt sai người đi kêu gọi quân tiếp viện. Lý Hiếu Cung thấy kế của Lý Tĩnh ngay từ đầu thuận lợi nên nóng lòng muốn đánh, chư tướng ai cũng nhao nhao xin giết giặc. Chỉ có Lý Tĩnh nói:

Nhất thiết không được có thái độ khinh địch như các tướng mà xuất chiến. Lúc này Tiêu Tiển gọi quân cứu viện đến, tất sẽ thắng, quân ta cứ cho thuyền neo ở bờ nam, kiên quyết không có động tĩnh gì, khí thế quyết một trận tử chiến của quân địch sẽ tiêu tan trong chốc lát. Đợi đến khi quân địch nghĩ rằng quân ta không dám quyết chiến cùng chúng, rải binh khắp nơi, không giữ chắc được bờ bắc thì quân ta mới khởi binh, lý nào lại không thắng được?.[3]

Lý Hiếu Cung theo lời các tướng, chỉ để Lý Tĩnh ở lại giữ trại, còn mình dẫn theo quân sĩ ra đánh. Chẳng ngờ quân Lương sĩ khí đang hăng, lấy một chọi mười, đánh quân Đường thua thảm hại. Lý Hiếu Cung phải quay lại giữ bờ nam. Quân Lương thấy đại thắng thì mở cờ trong bụng, hồ hởi chèo thuyền ra giữa sông để thu chiến lợi phẩm, quân Đường còn sợ không dám nhìn thẳng. Lý Tĩnh lúc này lại khuyên Lý Hiếu Cung nhân lúc quân địch đang không đề phòng, nên đánh ngay. Lý Hiếu Cung đồng ý, cho Lý Tĩnh cấp quân xông ra giết, quân Lương đang đắc ý không ngờ quân Đường lại đến đánh nên chỉ lo chạy thoát thân chứ không nghĩ đến việc đánh trả. Quân Lý Tĩnh thừa sức truy đuổi, giết ngược một mạch thẳng đến tận dưới chân thành Giang Lăng.

Sau khi đánh bại tướng Lương là Văn Thế Hồng, Lý Hiếu Cung cho quân vây hãm Giang Lăng, cắt đứt liên lạc của Tiêu Tiển với quân đội của mình trên khắp lãnh thổ. Quân Đường lúc này cướp được vô số chiến thuyền, ai cũng vui mừng, cho rằng chiến rằng chiến hạm quý báu khác thường như vậy mà dùng để đánh địch thì chỉ có toàn thắng. Chỉ có Lý Tĩnh không vui mừng gì, lại ra kế nên thả nổi chiến thuyền trên sông. Các tướng sĩ nghi hoặc, Lý Tĩnh giải thích:

Lãnh địa quân địch phía nam vượt qua Linh Biểu, phía đông là sông, quân ta lại tiến sâu vào. Nếu không thể công phá được Giang Lăng ngay lập tức, thì viện binh của địch đã tập trung ở dọc sông, lúc đó trong ngoài đều có địch, tiến thoái lưỡng nan, lúc đó dù có chiến thuyền tốt cũng chẳng để làm gì. Không khó để thấy rằng theo cách nghĩ thông thường của viện binh nếu phát hiện thấy ở hạ du một loạt chiến thuyền của quân Lương mà không có người để hỏi thăm thì tất sẽ nghĩ rằng kinh đô Giang Lăng đã bị ta đánh hạ, vì thế mà không dám tùy tiện tiến thêm. Do đó chúng ta phải dùng cách đi ngược lại với suy nghĩ thông thường càng thấy thành khó hạ thì càng phải thả số thuyền đó trôi sông để làm cho viện binh của địch nghi hoặc mà dừng lại. Viện binh đến chậm thì Giang Lăng đã là của chúng ta rồi.

Quân cứu viện của Tiêu Tiển thấy dọc sông đều là thuyền bè không người, quả nhiên lầm tưởng rằng Giang Lăng đã thất thủ nên không tiến thêm nữa. Trong khi đó quan viên địa phương thấy Giang Lăng bị vây chặt thì ùn ùn kéo nhau ra lạy chầu quân Đường, Tiêu Tiển chờ mãi chẳng thấy quan viên lẫn viện binh đến nên đã đầu hàng Lý Hiếu Cung. Quân Đường vào Giang Lăng, ngang nhiên cướp bóc, lại viện dẫn lý lẽ: "Tướng địch không chủ động đến hàng, chết là còn may chán, lẽ ra còn phải tịch thu hết gia sản khen thưởng cho tướng sĩ." Lý Tĩnh lại khuyên Lý Hiếu Cung:

Vương sư vào thành nên để tiếng nghĩa bay xa, những người chết vì chủ, thực là trung thần, sao lại cho là phản nghịch? Nếu quân ta hậu đãi các trung thần này thì chẳng mất tí công sức nào mà vẫn được hàng loạt trung thần chắp tay đến xin hàng.

Nhờ Lý Tĩnh và hàng thần của Tiêu Tiển là Sầm Văn Bản khuyên can nên Lý Hiếu Cung ra lệnh cấm cướp bóc dân chúng và không được trả thù quan tướng nước Lương. Các châu huyện nước Lương nghe tin Giang Lăng thất thủ nên đã đầu hàng nhà Đường. Hơn 10 vạn viện binh cũng cởi giáp ra hàng. Tiêu Tiển bị giải về Trường An và bị Đường Cao Tổ ra lệnh chém đầu. Lý Tĩnh vì lập công nên được thăng làm Vĩnh Khang huyện công. Sau đó Đường Cao Tổ sai Lý Tĩnh xuôi nam đi thuyết phục một số vùng nay thuộc Quảng ĐôngQuảng Tây, trước đó vốn theo Tiêu Tiển và một thủ lĩnh nghĩa quân khác là Lâm Sĩ Hoằng, thần phục nhà Đường. Lý Tĩnh tiến quân đến Quế Châu và đã chiêu hàng được một số thủ lĩnh nghĩa quân lớn trong vùng. Lý Tĩnh sau đó được giữ chức thứ sử Quế Châu.

Diệt Phụ Công Thạch

Mùa thu năm 623, một tướng nhà Đường là Phụ Công Thạch, vốn là tướng dưới trướng Ngô vương Đỗ Phục Uy, nổi dậy chống nhà Đường trong khi Đỗ Phục Uy vẫn ở Trường An, bản thân Phụ tự xưng là Tống đế. Đường Cao Tổ cho Lý Hiếu Cung làm chủ tướng, Lý Tĩnh làm phó đi đánh Phụ Công Thạch trong khi Lý Thế Tích và các tướng khác tấn công từ nhiều mặt. Lý Hiếu Cung và Lý Tĩnh xuôi dòng sông Dương Tử, nhiều phen đánh bại quân Tống. Phụ Công Thạch cho quân đóng ở núi Bác Vọng chuẩn bị chống quân Đường tập kích, lại căn dặn hai tướng là Phùng Huy Lượng và Trần Đăng Sư không được ra ngoài giao chiến, cứ để quân Đường bị tiêu hao. Tuy nhiên Lý Hiếu Cung nghe kế Lý Tĩnh, tấn công cắt nguồn lương thực quân Tống. Thấy hết lương, Phùng và Trần bắt buộc phải ra giao chiến với Lý Hiếu Cung. Các tướng khác khuyên Lý Hiếu Cung nên bỏ qua Phùng Trần hai tướng mà đi đường vòng đánh thẳng vào kinh đô Tống là Đan Dương, tuy nhiên Lý Hiếu Cung vẫn nghe theo lời Lý Tĩnh giao chiến với Phùng-Trần. Ban đầu, Lý Hiếu Cung dùng một nhánh quân già yếu giao chiến với quân Tống, sau đó dụ quân Tống vào sâu rồi chia cắt thành từng nhánh rồi tiêu diệt. Phụ Công Thạch nghe tin hoảng sợ bỏ Đan Dương mà chạy về phía đông nhưng bị người dân bắt rồi giao cho quân Đường. Đường Cao Tổ rất tán thưởng Lý Tĩnh, đã bình luận rằng: "Lý Tĩnh đúng là khắc tinh của Tiêu Tiển và Phụ Công Thạch. Cho dù là Bạch Khởi, Hàn Tín, Vệ Thanh hay Hoắc Khứ Bệnh cũng không hơn được".

Không tham gia cuộc tranh giành của các hoàng tử

Năm 625, Đông Đột Quyết tấn công Thái Nguyên, Lý Tĩnh dẫn quân lên bắc chống cự. Đương thời tướng Đường nào đánh Đột Quyết cũng bại, chỉ có Lý Tĩnh là giữ vững được binh lính. Năm 626, Đột Quyết lại tấn công, Lý Tĩnh được phong làm Thứ sử Linh Châu và ông đã cố gắng cắt đứt đường về của quân Đột Quyết, nhưng sau đó nhà Đường và Đột Quyết đã giảng hòa. Vào thời điểm này, nội bộ nhà Đường chứng kiến cuộc tranh giành quyền lực gay gắt giữa Thái tử Lý Kiến Thành và Tần vương Lý Thế Dân. Lý Thế Dân từng gửi thư cho cả Lý Tĩnh và Lý Thế Tích để hỏi kế, nhưng cả hai đều từ chối. Điều này làm cho hai người có được sự kính trọng của Lý Thế Dân.

Cùng năm 626, Lý Thế Dân quyết định ra tay trước, bí mật mai phục giết chết anh trai là Lý Kiến Thành và em là Lý Nguyên Cát tại cửa Huyền Vũ, ép Đường Cao Tổ lập mình làm Thái tử và sau đó truyền ngôi cho, tức là Đường Thái Tông.

Năm đầu Trinh Quán (627), ông được phong Hình bộ Thượng thư. Sang năm thứ 2 (628), kiêm Trung thư lệnh, đứng đầu Trung thư tỉnh, chức vụ này được xem như ngang với chức tể tướng. Sang đầu năm thứ 3 (629), lại phong kiêm làm Thượng thư của Binh bộ.